Gần đây mạng Phượng Hoàng của Trung Quốc đăng một bài bình luận về thông tin Việt Nam nhận tàu Gepard thứ 4. Bài báo viết: Truyền thông Việt Nam đưa tin, tàu hộ vệ Gepard thứ
4 của Việt Nam đã được chuyển từ xưởng đóng tàu ở Nga đến Việt Nam, ngày 24/1
đã vào neo tại cảng Cam Ranh. Con tàu này đi vào phục vụ sẽ tăng cường thực lực
của Hải quân Việt Nam ở mức độ nhất định. Mà Việt Nam dự định bố trí tàu này ở
vùng biển phía Đông, chuyên tuần tra Biển Đông. Tuy nhiên có một số fan quân sự
Trung Quốc tuyên bố: dám tới sẽ đánh.
Tàu hộ vệ Gepard là phiên bản cải tiến xuất khẩu của dự án
tàu 11661 thời Liên Xô, tổng cộng chia thành 5 loại. Phiên bản ban đầu của dự
án 11661 chủ yếu là để thay thế cho các tàu chống ngầm cũ lớp 1124, được tổng hợp
năng lực phòng không, chống hạm, chống ngầm vào một con tàu. Tàu đầu tiên đã đảm
nhiệm làm kỳ hạm trong hạm đội Caspian.
Phiên bản Việt Nam mua là tàu Gepard 3, ngoài khả năng tàng
hình ra, điểm nổi bật lớn nhất là nó mang tên lửa chống hạm Uran-E lần đầu tiên
xuất khẩu của Nga. Tên lửa này tầm bắn tối đa 130 km, tốc độ tối đa đạt Mach
0,8 (tức bằng 0,8 lần vận tốc âm thanh). Ưu điểm của tên lửa này không phải tốc
độ mà là khối lượng đầu đạn. Người ta nói với tàu sân bay cỡ tàu Liêu Ninh, chỉ
cần bị trúng một quả thì cơ bản sẽ mất năng lực tác chiến. Nó được xem như một
sát thủ giản, vì thế tàu Liêu Ninh trong khi hành trình ở vùng biển phía Nam cần
cực kỳ cẩn thận.
Tàu hộ vệ làm nhiệm vụ tuần tra biển gần hoặc hộ tống hạm đội.
Trong khi đó tàu Gepard của Việt Nam lượng giãn nước đầy tải chỉ có 2100 tấn,
được xem là tàu hộ vệ hạng nhẹ, nhưng nó lại trang bị 8 quả tên lửa chống hạm.
8 quả tên lửa chống hạm với tầm bắn đến 130 km này do Nga chế tạo, tuy nói rằng
không bằng tên lửa Harpoon của Mỹ nhưng rất khả quan, nếu sử dụng chiến thuật bắn
rồi chạy có thể được xem là “sát thủ tàu sân bay”.
Tàu Gepard còn mang một số tên lửa phòng không tầm gần, có
năng lực phòng không điểm. Tàu này cũng trang bị sonar thủy âm chống ngầm, hỏa
tiễn chống ngầm và ngư lôi hạng nặng đồng thời mang cả trực thăng chống ngầm
nên nó có năng lực chống ngầm không tồi. So với tàu hộ vệ 4000 tấn, tàu Gepard
có thể gọi là “nhỏ nhưng có võ”.
Đối với Hải quân Việt Nam, Gepard là tàu chủ lực. Trong Hải
quân Việt Nam, tàu có lượng giãn nước trên 1000 tấn chỉ có 4 tàu Gepard, 4 hoặc
5 tàu lớp Petya. Tàu lớp Petya đã là sản phẩm của những năm 60 của thế kỷ trước,
số còn lại toàn là tàu pháo tuần tra hoặc tàu hộ vệ, có một số thậm chí còn là
hàng cổ lỗ thời Thế chiến II. Nhưng nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của Hải quân Việt
Nam, từ hiện tại mà xét vẫn là phòng thủ biển gần. Cho nên với sự trợ giúp của
không quân và các hệ thống chống hạm trên bờ, tàu hộ vệ chỉ cần có năng lực
phòng thủ điểm là đủ rồi.
Là một quốc gia có đường bờ biển dài, đối với Việt Nam mà
nói, hải quân tự nhiên là cần phát triển trọng điểm. Tàu lớp Gepard dự định chế
tạo 6 tàu, hai tàu sau này Việt Nam yêu cầu chuyển giao kỹ thuật, trong đó bao
gồm cả kỹ thuật đóng tàu và kỹ thuật tên lửa chống hạm. Đương nhiên do tự thân
kinh tế và công nghệ hạn chế, 6 tàu Kilo của Hải quân Việt Nam vẫn là những thứ
có sức uy hiếp nhất, những tàu mặt nước có lượng giãn nước trên 4000 tấn, Việt
Nam vẫn chưa có khả năng chế tạo hoặc mua sắm.
Tuy nhiên trên thực tế, việc chế tạo các tàu mặt nước cỡ lớn
cũng không cần thiết. Rút cục dựa vào tình hình đất nước của Việt Nam, vẫn là
yên tâm phát triển kinh tế, hòa bình và ổn định mới là xu hướng chính của Đông
Nam Á.
Theo Ifeng
No comments:
bình luận nhận xét bạn đọcNote: Only a member of this blog may post a comment.