Icon

Hồ Sơ

Hồ Sơ

28 November 2017

Vì sao tên lửa chống hạm của Mỹ lạc hậu hơn Liên Xô?

Mỹ là siêu cường quân sự hàng đầu thế giới nhưng nói về lĩnh vực tên lửa, đặc biệt là tên lửa chống hạm thì có vẻ kém hơn Liên Xô và Nga.

Thời Thế chiến II, phương pháp tấn công một tàu chiến có 3 cách: dùng ngư lôi từ tàu ngầm, oanh tạc bằng máy bay và bắn bằng pháo hạm. Ba phương pháp này đều có nhược điểm: ngư lôi thì tầm bắn ngắn, điều kiện sử dụng hạn chế, oanh tạc thì độ chính xác kém và khiến máy bay gặp nguy hiểm cao còn pháo hạm thì không thể nào bắn các mục tiêu ở xa. Do vậy nâng cao tầm bắn và tính chính xác trong tác chiến chống hạm ngày càng được đặt ra cấp thiết.

Tên lửa V-1
Sau Thế chiến II, tên lửa V-1 của Đức đã khiến hai nước Mỹ Xô tỏa sáng. Sau khi chiến tranh kết thúc, các tư liệu kỹ thuật và bản vẽ liên quan đến việc chế tạo tên lửa của Đức được chuyển về Liên Xô còn các chuyên gia nghiên cứu chế tạo thì bị bắt đến Mỹ. Hai nước Mỹ Xô đã độc lập nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí dựa trên tên lửa V-1. Từ đó đưa đến việc thế hệ tên lửa chống hạm đầu tiên của hai nước ra đời, đồng thời định hình vóc dáng của tên lửa chống hạm hiện đại.

Nhưng nếu nói về tên lửa chống hạm sớm nhất, lại không phải đến từ Mỹ Xô, mà là RB-315 của Thụy Điển. Quả tên lửa đó chế tạo năm 1946, năm 1958 trang bị, sử dụng phương thức dẫn đường bằng vô tuyến điện. Nhưng loại tên lửa chống hạm này cần nhân viên điều khiển trong toàn bộ hành trình. Có nghĩa là nó không hoàn toàn là một tên lửa chống hạm mà có lẽ chỉ là một quả bom có điều khiển.

Quả tên lửa chống hạm đúng nghĩa đầu tiên là SS-N-1. Quả tên lửa này tầm bắn 80 km, đạt tốc độ Mach 0,9, độ cao hành trình từ 300 đến 3000m, đầu đạn nặng 730 kg. Nó được dẫn đường bằng cả quỹ đạo và radar chủ động. Động lực của tên lửa là nhiên liệu rắn và động cơ tuốc bin.

Trước khi phóng, radar trên hạm cung cấp tham số tọa độ và tham số vận động của mục tiêu, hệ thống kiểm soát hỏa lực sẽ tính toán góc bắn và hướng bắn tốt nhất. Sau khi bắn, nhiên liệu rắn đẩy tên lửa đạt đến một độ cao nhất định thì động cơ tên lửa hoạt động. Khi đến cách mục tiêu một cự ly nhất định, radar chủ động của tên lửa sẽ hoạt động để sục sạo và khóa mục tiêu và công kích.



Quả tên lửa này định hình kết cấu cơ bản của tên lửa chống hạm hiện đại. Sau này các nước khác phát triển tên lửa chống hạm, ngoài việc nâng cấp các tính năng ra thì không có đột phá nào về kết cấu so với quả tên lửa này của Liên Xô.

SS-N-1 tuy chế tạo thành công nhưng hạn chế vì điều kiện kỹ thuật đương thời nên cồng kềnh: dài 7,6m, đường kính 0,9m, nặng 3 tấn; tốc độ bay chậm, đường bay đơn giản, khả năng kiểm soát hệ thống động lực kém, độ chính xác không cao, không thể uy hiếp các tàu mặt nước có năng lực phòng ngự.

Đồng thời gian đó, Hoa Kỳ cũng chế tạo một tên lửa chống hạm có trình độ kỹ thuật tương tự nhưng vì độ tin cậy và tính thực dụng không cao nên không được coi trọng. Thêm nữa sau Thế chiến II, Hoa Kỳ có địa vị hải quân mạnh nhất toàn cầu cho nên chỉ cần dùng máy bay trên hạm là đủ đánh chìm bất kỳ tàu chiến của quốc gia nào.

Hơn nữa Mỹ cho rằng đem tiền bạc vào việc đối phó với lục quân Liên Xô và mối uy hiếp vũ khí hạt nhân là bức thiết hơn cho nên không có hứng thú với việc phát triển tên lửa chống hạm. Bởi vậy việc phát triển tên lửa chống hạm của Mỹ từ đó bắt đầu đình trệ.



Trong khi đó Liên Xô thì ngược lại, mối uy hiếp lớn nhất của họ đến từ biển, ý nghĩ dùng 1 quả tên lửa đánh chìm một tàu mặt nước cỡ lớn thật là hứng thú, cho nên trên cơ sở SS-N-1 họ lại tiếp tục tăng cường nghiên cứu thêm, tạo ra tên lửa chống hạm tiên tiến hơn là SS-N-2.

SS-N-2 (tức tên lửa P-15) có tầm bắn 40 km, tốc độ Mach 0,9, độ cao hành trình 100 đến 300m, trọng lượng (2,5 tấn) và thể tích so với SS-N-1 đã giảm. Nó sử dụng động cơ nhiên liệu lỏng, đầu đạn nặng 450 kg và ngòi nổ kiểu chạm nổ.

Trước khi phóng, hệ thống kiểm soát hỏa lực trên tàu căn cứ vào tham số mục tiêu do radar trên hạm thu được, kết hợp với tham số về gió trên biển để tính toán. So với SS-N-1, SS-N-2 tiến bộ lớn nhất là nâng cao tính năng điều khiển trên hành trình bay. Tăng cường khả năng lái tự động, đồng hồ độ cao vô tuyến.  


SS-N-2 thực chiến rất tốt, trong cuộc chiến Trung Đông lần 2 năm 1967, Ai Cập đã bắn 2 quả tên lửa loại này đánh chìm một tàu Israel.

Theo Sina

No comments:
bình luận nhận xét bạn đọc

Note: Only a member of this blog may post a comment.